“MẠC TU HỮU”
BẢN ÁN CÒN MÃI NỔI ĐAU
Khúc Ly Hương
Nhân một
chuyến tham quan, trên con đường thiên lý bắc nam, khi ngang qua địa phận tỉnh
Khánh Hòa, bất chợt đập vào mắt tôi một cây cầu nhỏ mang tên chí sĩ Trần Quý
Cáp. Đây là cầu Phước Thạnh, sông Cạn nơi mà thực dân Pháp cùng những tên quan
lại tay sai đã hành quyết chí sĩ yêu nước Trần Quý Cáp một cách dã man không
cần xét xử (mạc tu hữu).
…Ba
chữ án thành khóc vang non bể (Phan Bội Châu) ngày ấy, 17 tháng 5 năm Mậu thân
(16/5/1908). Bây giờ đã hơn 100 năm nhưng trong lòng đất mẹ, trong từng huyết
quản của người dân Việt vẫn thắm đượm máu Người.
Trở
lại quê nhà, trên con đường tỉnh lộ từ Vĩnh Điện lên Ái Nghĩa, cách Vĩnh Điện
khoảng 5 km, bên tay phải là thôn Thai La, làng Bất Nhị là nơi chào đời của Chí
sĩ họ Trần.
Mộ chí sĩ Trần Quý Cáp lúc chưa trùng tu
Tiên
sinh nguyên tên là Trần Nghị sau đổi tên là Quý Cáp, hiệu Thái Xuyên, sinh năm
Canh Ngọ (1970). Thiếu thời ông rất thông minh, học giỏi nhưng nhà nghèo không
có sách để học, ông phải làm thân với các con của cụ Nguyễn Thành Ý để mượn
sách về học, khi đi tập bài ở trường đốc ông luôn đứng đầu.
Năm
1899 thân phụ ông qua đời, ông phải ở nhà dạy học nuôi mẹ. Năm Giáp Thìn (1904)
ông đỗ Tiến sĩ cùng với cụ Huỳnh Thúc Kháng ,cũng là năm cựu học bắt đầu suy
thoái, tân học được tôn sùng, sách báo của Khương Hữu Vị, Lương Khải Siêu, “Dân
ước” của Lư Thoa, “Pháp ý” của Mạnh Đức đã được dịch ra phổ biến ở kinh, sớ xin
bỏ thi cử của Thân Trọng Huề, bài “Thiên hạ đại thể luận” của Nguyễn Lộ
Thạch…ông đã đọc, tiếp thụ các tư tưởng, tích cực đổi mới, ông đã đề xướng, cổ
xúy tân học, cắt tóc ngắn, mặc âu phục, đông du…
Năm
1905 ông cùng Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Huỳnh Thượng Trung vào Nam cổ
động phong trào Duy Tân, khi đến Bình Định gặp lúc trường đốc đang hạch các ông
đã lấy tên Hoàng Mộng Giác vào dự thi, cụ Phan Châu Trinh làm bài thơ “CHÍ
THÀNH THÔNG THÁNH”, cụ Trần và cụ Huỳnh làm bài phú “LƯƠNG NGỌC DANH SƠN”, với
nội dung đánh thức lòng yêu nước của nhân dân.
Năm
1906 có chỉ vua bổ ông làm giáo thọ phủ Thăng Bình. Đến đây ông mời thầy dạy
thêm chữ quốc ngữ và chữ Pháp cho học trò. Phái cựu nho đã công kích ông qua
bài: “cựu học tế tân học”, ông bèn làm bài “Sĩ phu tự trị” để cảnh tỉnh.
Nhân
việc qua phủ Điện Bàn, Trần Văn Thông ra lệnh trống phủ thì đánh ba hồi và ba
tiếng, còn trống trường thì đánh một hồi và một tiếng chứ không được đánh như
trống phủ, ông bèn làm bài thơ:
Trống
trường, trống phủ, trống lung tung
Trống
cũng quan, đau mới lạ lùng
Trống
đặng mấy hồi mà lớn tiếng
Dăm
mòn da mỏng cũng như không.
Quan
phủ nghe được vô cùng tức giận.
Các
cuộc diễn thuyết của ông ngày càng thu hút nhiều người nghe, có tác động mạnh,
khiến bọn Pháp lo ngại, chúng cài mật thám theo dõi ông, một tên mật thám báo
với người Pháp: “Không giết người này thì vài năm nữa dân Nam, Ngãi không thể
trị được” người Pháp đồng tình nhưng chưa có cơ hội để giết ông và nói: nên đổi
nó đi xa và cho tên mật thám ở với nó để theo dõi, tên mật thám đồng thời được
bổ làm tuần vũ Khánh Hòa.
Theo
cụ Trần Huỳnh sách: lúc bấy giờ Nguyễn Văn Mại làm bố, chánh Quảng Nam mời ông
ra dạy con của bố chánh tại dinh được hai tháng, hằng ngày ông thấy trống đánh
ba hồi, quan ra ngồi chễm chệ giữa công đường, dân chúng đến hầu thì mỗi người
bưng một mâm lễ đặt trước sân sắp hàng lạy, quan thì hầm hét nào giăng nọc
đánh, nào ngăm chặt đầu, gông cổ… nhưng khi nghe có Tây đến thì áo không kịp
gài, giày không kịp mang, chỉ biết đứng nghe tên thông ngôn nói gì thì dạ nấy,
thấy thế ông chửi mắng tàn tệ, ông bố chánh ra lệnh ông nghỉ dạy, căm thù ông
từ đấy.
Tháng
2 năm Mậu Thân (1908), ông bị đổi vào làm giáo thọ phủ Ninh Hòa, Khánh Hòa, ông
không chịu đi, muốn từ chức viện cớ mẹ già nhưng các thân hữu khuyên ông nên đi
xa để tránh sự theo dõi của kẻ manh tâm. Khi đi ông nói với cụ Huỳnh và bạn bè:
“Anh em cố gắng cho học hội và thương hội phát triển thêm”.
Lúc
ở Khánh Hòa, ông thấy bọn quan lại tham ô, ông tức làm bài ca trù để thức tỉnh:
Dân
ta nay cực đà như chó
Sao
quan còn võng đỏ ngáng ngà
Thời
thế này, trai trí bỏ riêng ra
Quyền
thế thậm, kim ngân đa mới khá
Dám
hỏi mấy người công khanh, hầu bá
Ăn
cơm vua, cầm quyền nước, ngồi mà lo những chuyện chi chi?
Dân
đồ thán, quốc khuynh nguy
Độc
Lạc mỗi ngày ca vũ mãi
Sách
có chữ “Xuân lai, xuân bất tái”.
Nước
mất rồi mua lại được không?
Xâu
thuê này cực cả Tân Đông
Đông
Tây cực, Bắc Nam
rồi cũng khổ
Tại
có chữ “Vị thân gia chi cố…”
Mút
lông mèo một lũ u mê!
Mất
rồi ngồi đợi trở về!
Bài
ca được truyền tụng trong dân chúng, khiến bọn thực dân càng căm thù ông.
Lúc
bấy giờ ở Khánh Hòa tri huyện Hồ Sĩ Tạo đỗ đại khoa vốn có cảm tình với phái
Duy Tân nên cho phép ông dùng địa chỉ
của quan huyện để giao dịch thư từ tránh sự nghi ngờ của thực dân và tây
sai. Khi ông Tạo nghỉ phép một tri huyện khác quyền nhiếp, một lá thư từ Quảng
Nam gởi vào, tri huyện quyền nhiếp mở ra xem thì bì thư trong mang tên Trần Quý
Cáp liền sinh nghi, bóc ra xem thấy có liên quan đến hoạt động khác, không phải
việc công hay gia đình, liền đem trình với cấp trên là ám sát Nguyễn Văn Mại bộ
chánh Phạm Ngọc Quát, hai tên này vốn có tư thù với ông và muốn tâng công lên
chức, đã tìm cách hại ông.
Nhân
phong trào nổi lên xin xâu của nhân dân Đại Lộc lan đến Phú Yên, Hà Tĩnh, nhiều
nhân sĩ bị bắt, tù đày, bố chánh Nguyễn Văn Mại cấu kết với ám sát Phạm Ngọc
Quát vốn là tên xảo trá, tàn nhẫn, nhờ tài khuyền mã mà lên chức cho rằng ông
đã xúi dân làm loạn bắt giam ông, soát nhà ông lấy được bức thư của học trò từ
Quảng Nam gửi vào có câu: “Sĩ phu Đại Lộc tổ chức xin xâu tuần nhật lan khắp
Trung Kỳ sự ấy là bất ngờ”, cùng khi đó ở Điện Bàn ông phủ Thống soát nhà cử
nhân Phan Thúc Duyện (Phong Thử) bắt được lá thư của ông trong đó có câu: “Cận
văn ngô châu cử thử, khoái thậm khoái thậm ( gần đây nghe tỉnh ta có làm việc
ấy khoái lắm khoái lắm)”. Phủ thống đệ băm tỉnh tư vào Khánh Hòa, quan tỉnh
Khánh Hòa phối hợp với công sứ Pháp tra hỏi, soát bắt tại nhà ông một bức thư
của Phan Chu Trinh…
Khi tra xét
ông khẳng khái nói: “Tôi chỉ thi hành sở học để làm cho dân khôn, nước mạnh,
nay dân trí đã như vậy là khá cao, biết lo liệu cho tương lai của mình, cho vận
mệnh nước nhà đó, tôi có tội tình gì ?”.
Tỉnh
Khánh Hòa đã kết án ông tử hình, hội nhân quyền Pháp có can thiệp để miễn tử
hình, nhưng khi điện đến thì án đã thi hành.
Ông
thường nói: “Khai dân trí có ba cách: Học hiệu, báo chí và diễn thuyết, nhưng
học hiệu chỉ là trường học trâu ngựa mà thôi, báo chí thì do người Pháp quản
lý, chúng còn ngu dân không hy vọng gì chỉ còn diễn thuyết mà thôi. Có cắt lưỡi
tôi đi thì thôi nếu không lưỡi của tôi là quyền của tôi, tôi quyết làm chí tôi,
không thể lấy đầu tôi mà đối lưỡi với tôi được.” Quả nhiên vì lưỡi mà ông đã
mất đầu, than ôi!
Ngày
5 tháng 5 năm Mậu Thân (1908) ông bị đưa ra chém ở chợ Diên Khánh, tên cai ngục
rất kính ông và nói với ông rằng? “Tôi vì phải thi hành mệnh lệnh thấy ông bị
nguy như thế này lòng tôi như dao cắt, nếu ông cần bảo điều gì thì tôi xin ra
sức”.
Ông
nói: “Được như thế này là chí muốn của tôi, có phàn nàn gì đâu, chỉ nhờ ông lấy
cái áo lễ của tôi, đặt hương án ở trước tôi để tôi làm lễ từ biệt đồng bào đồng
chí”.
Hương
án được đưa tới, ông mặc lễ phục quay về hướng Bắc lạy năm lạy và nói: “Quý Cáp
này bất tài không giúp gì được một tay cho nước, cho vua, đồng bào lầm than
chưa biết đến bao giờ mà tôi đã thoát khổ, thật là có tội xin lấy cái chết tạ
tội” Rồi ông lạy bốn lạy và nói: “Các đồng chí cố gắng dân trí mở mang dần, dân
trí có lúc dùng được, mong các đồng chí kiên trì giữ mình, góp sức suy nghĩ,
đừng vội vã, đừng yếu ớt, làm cho được việc, đừng bắt chước tôi chết sớm. Tội
tôi rất to, xin lỗi các đồng chí”.
Nói
xong ông quay lại nói với tên coi chém: “Việc tôi hết rồi” Tên coi chém chưa
trả lời thì ông lại nói “ chưa chưa tôi còn mẹ già lẽ nào lại không tạ lỗi” Rồi
ông trở lại hương án lạy bốn lạy nói: “Tôi lấy cái chết tạ mẹ già tôi”, nói
xong ông chịu chém, ở tuổi đời 37 ông bị chém mà không có bản cáo trạng công
khai để bị cáp phản biện, bản án người đời gọi là MẠC TU HỮU (1) là vụ án dã
man nhất thời bấy giờ, làm xúc động nhân tâm cả nước.
Phan
Bội Châu bảo: Trần chết vì đã ghi bảy chữ biểu thị sự hân hoan vào bên lề lá
thư từ Quảng Nam
gởi vào “Dân ta làm thế sướng sướng sướng” nên câu cuối trong bài thơ điếu Trần
Quý Cáp, Phan Bội Châu viết:
…
Thương tâm tất tự cánh thiên thu
(Đau
lòng bảy chữ hóa nghìn thu)
Trên
bia mộ của ông, Phan Bội Châu viết câu đối:
*
Ngọc toái bất ngõa toàn, tam tự ngục hàn sơn hải khấp.
*
Hồng khinh nhi Thái Trọng, thiên thu luận định nhật tinh huyền.
( Thà viên ngọc nát hơn miếng
ngói lành, ba chữ án thành khóc than non bể.
Đành lông hồng khinh mà non Thái trọng, ngàn thu luận định chói lọi trời
sao).
(1) (MẠC TU HỮU) MẠC: chẳng; TU: nên; HỮU: có
( Chẳng cần phải có)
Gian
thần Tần Cối là quyền thần nhà Tống, ăn của đút lót của giặc Kim kết tội trung
thần Nhạc Phi án tử hình. Danh tưởng Hàn Thế Trung tìm hỏi Tần Cối thật hư,
Nhạc Phi có tội gì? Tần Cối đáp: “Việc của Nhạc Phi tay chưa rõ ràng nhưng”
chẳng cần phải có (mạc tu hữu) bằng chứng đích xác mới xử tội được. Ba chữ mạc
tu hữu trở thành tam tự ngục là cái án ba chữ để kết tội mà giam vào ngục.